Làm thế nào để việc ghi nhãn hàng hóa đúng quy định?




Mặc dù các quy định về dán nhãn hàng hóa NK đã được luật hóa, nhưng khi đưa vào thực tiễn vẫn có những hạn chế, chưa phù hợp khiến cả cơ quan Hải quan và doanh nghiệp (DN) đều gặp lúng túng.



Thực tế “đi lệch” quy định

Trường hợp của Công ty Ford Việt Nam, Công ty NK các mặt hàng linh kiện, phụ tùng phục vụ bảo hành, bảo dưỡng xe ô tô. Các mặt hàng này đã được mã hóa sản phẩm theo quy định của Tập đoàn Ford toàn cầu và mã sản phẩm này được dán trên hộp hay in/khắc trực tiếp trên linh kiện. Mỗi mã sản phẩm được tích hợp trên hệ thống quản lý sản phẩm của Tập đoàn Ford, tương ứng với đầy đủ các thông tin cần thiết liên quan đến hàng hóa đó, bao gồm: Tên hàng, nhà cung cấp, xuất xứ hàng hóa… Tuy nhiên, các thông tin này lại không thể hiện rõ xuất xứ của hàng hóa.

Tương tự như trường hợp của Công ty Ford, một số DN khác như Intel cũng gặp phải tình huống khó khi di chuyển toàn bộ nhà máy đang hoạt động sang Việt Nam. Trường hợp này, công ty không thể có nhãn của nhà sản xuất ra máy móc thiết bị. Hay một số Công ty Nhật Bản di chuyển máy móc tại Trung Quốc và các nước sang Việt Nam cũng không thể có đầy đủ thông tin theo quy định tại Nghị định 89/2006/NĐ-CP về nhãn hàng hóa.

Có thể thấy, đối với các mặt hàng là linh kiện, phụ tùng NK để sản xuất, lắp ráp, thay thế; máy móc, thiết bị đã qua sử dụng NK để phục vụ sản xuất thì không thể có nhãn của nhà sản xuất, không có bao bì, đóng gói hoặc do yêu cầu bảo quản vận chuyển không thể đảm bảo nguyên trạng nhãn trên sản phẩm.
Học kế toán tổng hợp thực hành Tại thủ đức
Bên cạnh đó khi làm thủ tục cho DN, Tổng cục Hải quan cũng gặp phải các trường hợp ghi nhãn gốc trên sản phẩm hàng hóa chưa thống nhất. Khi kiểm tra thực tế một số lô hàng NK, cơ quan Hải quan thấy rằng việc ghi xuất xứ bằng tiếng Anh trên hàng hóa cũng có rất nhiều kiểu, thường thể hiện thông tin theo yêu cầu của nhà NK hoặc quy định của nhà sản xuất, nhà phân phối nên không đảm bảo tính thống nhất.

Cụ thể như điện thoại di động nhãn hiệu Nokia ghi: Made by Nokia, Finland (sản xuất bởi Nokia, Phần Lan), nhưng không ghi sản xuất tại nước nào nên có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng là sản phẩm sản xuất tại Phần Lan, nhưng thực chất hàng sản xuất tại Trung Quốc; Các sản phẩn iphone, ipad NK ghi xuất xứ trên sản phẩm là Assembled in China (lắp ráp tại Trung Quốc), chứ không ghi xuất xứ như quy định tại Nghị định 89/2006/NĐ-CP "ghi 'sản xuất tại' hoặc 'chế tạo lại' hoặc 'xuất xứ' kèm theo tên nước hay vùng lãnh thổ sản xuất ra hàng hóa đó". Điều này gây khó khăn cho cơ quan Hải quan trong việc xác định hành vi vi phạm và xử lý vi phạm hành chính.

Phạt hợp lý

Rõ ràng, việc thực hiện các quy định về nhãn hàng hóa NK chưa được thực hiện đầy đủ và thống nhất. Tuy nhiên, thực tế cho thấy không phải trường hợp nào cũng áp dụng được đầy đủ những quy định trong các văn bản pháp luật. Thậm chí, với cơ quan Hải quan khi xử lý cũng phải “lăn tăn” bởi nếu xử phạt thì cũng “khó” cho DN còn nếu không xử phạt thì chưa thực hiện đúng các quy định tại các văn bản luật.

Điều 3 Nghị định 89 quy định, lưu thông hàng hóa là hoạt động trưng bày, vận chuyển lưu giữ hàng hóa trong quá trình mua bán hàng hóa, trừ trường hợp vận chuyển hàng hóa của tổ chức, cá nhân NK hàng hóa từ cửa khẩu về kho lưu giữ.
lop hoc ke toan tong hop thuc hanh tai bien hoa dong nai
Được biết, Bộ Khoa học và Công nghệ từng trả lời Tổng cục Hải quan: Hàng hóa NK vào Việt Nam mà trên nhãn chưa thể hiện hoặc thể hiện chưa đủ những nội dung bắt buộc bằng tiếng Việt thì không vi phạm quy định về nhãn hàng hóa nhưng tổ chức, cá nhân phải bổ sung nhãn phụ bằng tiếng Việt trước khi đưa ra lưu thông (với điều kiện hàng hóa phải có nhãn gốc theo quy định).

Tuy nhiên, theo quy định tại điểm e khoản 5 Điều 14 Nghị định 127/2013/NĐ-CP, hành vi NK hàng hóa vào Việt Nam mà trên nhãn thể hiện chưa đúng, đủ những nội dung bắt buộc theo quy định của pháp luật bị xử phạt với mức phạt tiền từ 30 triệu đồng đến 60 triệu đồng và buộc khắc phục các vi phạm về nhãn hàng hóa trước khi hàng hóa được thông quan.

Như vậy, việc quy định về dán nhãn hàng hóa theo Nghị định 89 và xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định về dán nhãn hàng hóa theo Nghị định 127 là chưa thống nhất.

Để thống nhất thực hiện, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động XNK, nhưng vẫn đảm bảo thực hiện đúng các quy định tại Nghị định 89, Tổng cục Hải quan đề xuất Bộ Tài chính thống nhất với Bộ Khoa học và Công nghệ không xử phạt vi phạm hành chính về hải quan đối với trường hợp hàng hóa NK mà trên nhãn gốc chưa thể hiện đầy đủ các nội dung bắt buộc theo quy định của Nghị định 89, chủ hàng hóa NK phải chịu trách nhiệm dán nhãn hàng hóa theo quy định tại Nghị định 89/2006/NĐ-CP trước khi đưa ra lưu thông trên thị trường.

Cùng với đó, việc xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định 127 chỉ áp dụng đối với trường hợp hàng hóa được cơ quan Hải quan cho phép đưa về bảo quản, nhưng DN tự ý đưa ra thị trường tiêu thụ và trên nhãn hàng hóa chưa thể hiện đúng, đủ các nội dung theo quy định của Nghị định 89.
dich vu lam bao cao tai chinh tai huyen Dan Phuong Nguồn Báo Hải Quan
[Read More...]


Cách viết hóa đơn Giá Trị Gia Tăng trong công ty xây dựng



1. Thời điểm xuất hóa đơn trong xây dựng:

** Căn cứ theo khoản 2 điều 16 Thông tư 39/2014/TT-BTC quy định:
“…Ngày lập hóa đơn đối với xây dựng, lắp đặt là thời điểm nghiệm thu, bàn giao công trình, hạng mục công trình, khối lượng xây dựng, lắp đặt hoàn thành, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại vĩnh phúc
– Trường hợp giao hàng nhiều lần hoặc bàn giao từng hạng mục, công đoạn dịch vụ thì mỗi lần giao hàng hoặc bàn giao đều => Phải lập hóa đơn cho khối lượng, giá trị hàng hóa, dịch vụ được giao tương ứng.

– Nếu DN kinh doanh bất động sản, xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng nhà để bán, chuyển nhượng có thực hiện thu tiền theo tiến độ thực hiện dự án hoặc tiến độ thu tiền ghi trong hợp đồng thì ngày lập hóa đơn là ngày thu tiền….”

Trên hóa đơn ghi rõ số tiền thu, giá đất được giảm trừ trong doanh thu tính thuế GTGT, thuế suất thuế GTGT, số thuế GTGT.

** Lưu ý:
– DN xây dựng có công trình xây dựng, lắp đặt mà thời gian thực hiện dài, việc thanh toán tiền thực hiện theo tiến độ hoặc theo khối lượng công việc hoàn thành bàn giao, => Phải lập hoá đơn thanh toán khối lượng xây lắp bàn giao.

– Hóa đơn GTGT phải ghi rõ doanh thu chưa có thuế và thuế GTGT.

– Trường hợp công trình xây dựng hoàn thành đã lập hóa đơn thanh toán giá trị công trình nhưng khi duyệt quyết toán giá trị công trình XDCB có điều chỉnh giá trị khối lượng xây dựng phải thanh toán thì => Lập hóa đơn điều chỉnh, chứng từ điều chỉnh giá trị công trình phải thanh toán.

2. Thời điểm xác định thuế GTGT

** Căn cứ theo khoản 5 điều 8 Thông tư 219/2013/TT-BTC quy định:
“…5. Đối với xây dựng, lắp đặt, bao gồm cả đóng tàu, là thời điểm nghiệm thu, bàn giao công trình, hạng mục công trình, khối lượng xây dựng, lắp đặt hoàn thành, không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền…”

3. Xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế TNDN:

** Căn cứ theo Thông tư 78/2014/TT-BTC quy định:
“…Điều 5. Doanh thu

3. Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế trong một số trường hợp xác định như sau:

m) Đối với hoạt động xây dựng, lắp đặt là giá trị công trình, giá trị hạng mục công trình hoặc giá trị khối lượng công trình xây dựng, lắp đặt nghiệm thu.

– Trường hợp xây dựng, lắp đặt có bao thầu nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị là số tiền từ hoạt động xây dựng, lắp đặt bao gồm cả giá trị nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị.

– Trường hợp xây dựng, lắp đặt không bao thầu nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị là số tiền từ hoạt động xây dựng, lắp đặt không bao gồm giá trị nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị…”

4. Cách tính thuế TNDN tạm tính nếu thu tiền trước theo tiến độ:

** Căn cứ theo Điều 17 Thông tư 78/2014/TT-BTC:
“…- Trường hợp doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, nhà để chuyển nhượng hoặc cho thuê, có thu tiền ứng trước của khách hàng theo tiến độ dưới mọi hình thức thì thời điểm xác định doanh thu tính thuế TNDN tạm nộp là thời điểm thu tiền của khách hàng, cụ thể:

+ Trường hợp doanh nghiệp có thu tiền của khách hàng mà xác định được chi phí tương ứng với doanh thu đã ghi nhận (bao gồm cả chi phí trích trước của phần dự toán hạng mục công trình chưa hoàn thành tương ứng với doanh thu đã ghi nhận) thì doanh nghiệp kê khai nộp thuế TNDN theo doanh thu trừ chi phí.

+ Trường hợp doanh nghiệp có thu tiền của khách hàng mà chưa xác định được chi phí tương ứng với doanh thu thì doanh nghiệp kê khai tạm nộp thuế TNDN theo tỷ lệ 1% trên doanh thu thu được tiền và doanh thu này chưa phải tính vào doanh thu tính thuế TNDN trong năm.

Khi bàn giao bất động sản doanh nghiệp phải thực hiện quyết toán thuế TNDN và quyết toán lại số thuế TNDN phải nộp. Trường hợp số thuế TNDN đã tạm nộp thấp hơn số thuế TNDN phải nộp thì doanh nghiệp phải nộp đủ số thuế còn thiếu vào Ngân sách Nhà nước. Trường hợp số thuế TNDN đã tạm nộp lớn hơn số thuế phải nộp thì doanh nghiệp được trừ số thuế nộp thừa vào số thuế TNDN phải nộp của kỳ tiếp theo hoặc được hoàn lại số thuế đã nộp thừa.

Đối với doanh nghiệp kinh doanh bất động sản có thu tiền ứng trước của khách hàng theo tiến độ và kê khai tạm nộp thuế theo tỷ lệ % trên doanh thu thu được tiền, doanh thu này chưa phải tính vào doanh thu tính thuế TNDN trong năm đồng thời có phát sinh chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới khi bắt đầu chào bán vào năm phát sinh doanh thu thu tiền theo tiến độ thì chưa tính các khoản chi phí này vào năm phát sinh chi phí. Các khoản chi phí quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại, hoa hồng môi giới này được tính vào chi phí được trừ theo mức khống chế theo quy định vào năm đầu tiên bàn giao bất động sản, phát sinh doanh thu tính thuế TNDN…”

** Như vậy:
– Các khoản tạm ứng không được xuất hóa đơn mà chỉ theo dõi công nợ 131.

– Khi nào xuất hóa đơn thì phản ánh doanh thu.

– Loại công trình cuốn chiếu làm đến đâu nghiệm thu đến đó (gọi là phân đoạn, nghiệm thu giai đoạn) => gọi là nghiệm thu giai đoạn thi công, hạng mục nào làm xong nghiệm thu luôn

=> Thanh toán xuất hóa đơn luôn.

– Giai đoạn 1:

+ Biên bản nghiệm thu giai đoạn 1

+ Biên bản xác nhận khối lượng giai đoạn 1

+ Bảng quyết toán khối lượng giai đoạn 1

=> Xuất hóa đơn GTGT giai đoạn 1.

– Giai đoạn 2:

dịch vụ thành lập doanh nghiệp công ty giá rẻ tại huyện đông anh + Biên bản nghiệm thu giai đoạn 2

+ Biên bản xác nhận khối lượng giai đoạn 2

+ Bảng quyết toán khối lượng giai đoạn 2

=> Xuất hóa đơn GTGT giai đoạn 2, cho đến khi kết thúc công trình.

=> Kết thúc công trình = Các giai đoạn cộng lại:

– Biên bản nghiệm thu khi hoàn thành công trình đưa vào sử dụng

– Biên bản xác nhận khối lượng hoàn thành

– Bảng quyết toán khối lượng công trình

=> Xuất hóa đơn GTGT phần còn lại và thanh lý hợp đồng.

** Nhưng thực tế:

= > Mỗi lần ứng là chủ đầu tư đều yêu cầu xuất hóa đơn mới cho tạm ứng. Do đó để hợp thức hóa tiền tạm ứng cho các hóa đơn xuất ra thì làm:

– Biên bản nghiệm thu.

– Xác nhận giai đoạn theo dạng cuốn chiếu kiểu này cho đúng luật chế độ sử dụng hóa đơn

– Loại công trình hoàn thành đại cục.

=> Tức bên thi công phải thi công xây dựng hết các hạng mục toàn bộ => tiến hành nghiệp thu hoàn thành công trình đưa vào sử dụng

=> Kết thúc công trình:

– Biên bản nghiệm thu khi hoàn thành công trình đưa vào sử dụng

– Biên bản xác nhận khối lượng hoàn thành.

– Bảng quyết toán khối lượng công trình

=> Xuất hóa đơn GTGT và thanh lý hợp đồng. dich vu ke toan thue tron goi tai binh duong
[Read More...]


Bạn hiểu về tính hữu ích của Báo cáo tài chính như thế nào?



Mục tiêu của Báo cáo tài chính là cung cấp các thông tin tài chính hữu ích cho người sử dụng trong việc ra quyết định kinh tế. Tuy nhiên, khi các nguyên tắc, yêu cầu, hướng dẫn lập và trình bày Báo cáo tài chính không rõ ràng và đầy đủ, thiếu tính đồng bộ, hay khó áp dụng, sẽ không đảm bảo được các tính chất (đáng tin cậy, có thể hiểu, so sánh được…), Báo cáo tài chính vì thế trở nên kém hữu ích. Thông tin tài chính hữu ích là đối tượng được quan tâm đặc biệt của nhiều tổ chức nghề nghiệp, nhà nghiên cứu, thực hành kế toán trên thế giới trong nhiều năm qua, với nhiều giác độ tiếp cận khác nhau.


Quan điểm của Hội đồng Chuẩn mực Kế toán Tài chính Mỹ (FASB)

Khái niệm số 1 (1980), viết tắt là CON1, đoạn 32 nêu rõ: "các đặc trưng của thông tin giúp nó trở nên quý giá để dẫn dắt việc lựa chọn các chính sách kế toán được ưu tiên từ những phương án sẵn có. Chúng có thể được xem như một hệ thống thứ bậc các tính chất kế toán, hữu ích để ra quyết định trong những tình huống quan trọng."

Để trở nên hữu ích, thông tin tài chính phải thể hiện được từng tính chất trong một chừng mực tối thiểu. Mặc dù trong hệ thống có sự phân định giữa các tính chất sơ cấp và các tính chất khác nhưng không tính chất nào được chỉ định là ưu tiên hơn; hơn nữa, một loại tính chất nào đó có thể bị hy sinh để có được những tính chất khác mà không làm giảm sự hữu ích của thông tin (CON2, đoạn 31)

Thông tin kế toán khi được định hướng đến người sử dụng để ra quyết định trên cơ sở đáp ứng các tính chất làm cho trở nên hữu ích, nhưng tiến trình này đã gặp phải hai trở ngại quan trọng: Áp lực về cân đối lợi ích- chi phí: Việc cung cấp thông tin tài chính tiêu tốn nhiều chi phí để thu nhập, xử lý, soạn thảo các Báo cáo tài chính hoặc cho kiểm toán; hơn nữa còn phải xem xét các chi phí phát sinh từ phía người sử dụng như thu thập, phân tích, hay loại bỏ những thông tin thừa. Trong khi lợi ích mang lại từ thông tin, chẳng hạn sự đáp ứng một yêu cầu pháp lý, thương mại, hay củng cố hình ảnh tài chính của doanh nghiệp, tạo niềm tin cho khách hàng và giới đầu tư (đối với người soạn thảo), hoặc có thể là những kết quả phân tích, dự báo phù hợp và đáng tin cậy cho việc ra quyết định (đối với người sử dụng thông tin)…có thể không tương xứng với số tiền đã bỏ ra. Nói cách khác, tính hữu ích của thông tin tài chính bị giảm sút nếu chi phí vượt quá lợi ích mang lại từ việc cung cấp sử dụng thông tin. Điều này gây ra áp lực rất lớn đến việc cung cấp thông tin tài chính hữu ích nếu yêu cầu quá cao về lợi ích mang lại của thông tin từ phía nhà nước, người sử dụng so với khả năng đáp ứng của doanh nghiệp.

Trong những tình huống không chắc chắn, đòi hỏi phải có sự xét đoán của người làm kế toán hoặc những người liên quan trực tiếp khác như các kiểm toán viên, nhà phân tích về những sự kiện quan trọng có thể ảnh hưởng lớn đến việc ra quyết định của người sử dụng thông tin. Sự xét đoán về mức độ ảnh hưởng gắn liền với tính chất trọng yếu của sự kiện, trên phương diện tổng thể hoặc cục bộ, đặc biệt là ở khía cạnh định lượng. Do vậy, việc đưa ra các hướng dẫn hay tiêu chuẩn để giúp xác định các mức trọng yếu theo từng ngành, lĩnh vực hoạt động là điều cần thiết để các bên liên quan có được sự đảm bảo hợp lý khi đưa ra các xét đoán là không bị lệ thuộc nhiều vào các ngưỡng nhận thứ cá biệt nào, chẳng hạn như Bảng hướng dẫn các ví dụ về định lượng mức trọng yếu được FASB đưa ra trong CON2 trên cơ sở tham chiếu các hướng dẫn của SEC, APB. Điều này chắc chắn sẽ giúp tăng cường tính hữu ích của thông tin tài chính được cung cấp.

Học kế toán tổng hợp thực hành Tại thủ đức Trong hệ thống các tính chất kế toán thì sự phù hợp và đáng tin cậy là những khái niệm trung tâm của kế toán.

Để phù hợp (relevant), thông tin kế toán phải có năng lực tạo ra sự khác biệt trong một quyết định qua việc giúp cho người sử dụng thông tin thực hiện thiết lập các dự báo về kết quả của các sự kiện trong qúa khứ, hiện tại, hay tương lai, xác nhận hoặc hiệu chỉnh các kỳ vọng (CON2, đoạn 47). Một mặt, tính phù hợp của thông tin tài chính bao gồm hai thành tố là giá trị dự báo (predictive value) và giá trị phản hồi (feedback value), bởi vì không nhận thức được quá khứ thì không đủ cơ sở để dự báo, không có lợi ích trong tương lai thì nhận thức về quá khứ cũng vô dụng (CON2, đoạn 51), điều này thể hiện rất rõ trong các báo cáo giữa niên độ để thể hiện thành quả quá khứ lẫn dự báo thu thập thường niên trước khi kết thúc niên độ; mặt khác, tính kịp thời cũng được xem một khía cạnh lệ thuộc của tính phù hợp bởi nếu thông tin không sẵn có khi cần hoặc chỉ có sau khi các sự kiện đã được báo cáo rất lâu thì thông tin sẽ thiếu tính phù hợp và ít được sử dụng.

Tính tin cậy (reliability) cũng như tính phù hợp rất quan trọng để làm sáng tỏ thực chất của các yêu cầu để có được số liệu kế toán được mô tả một cách xác thực (CON2, đoạn 58). Thông tin kế toán đáng tin cậy khi người sử dụng thông tin có thể đặt niềm tin vào đó để ra quyết định, dựa trên hai đặc trưng quan trọng là trình bày trung thực (representational faithfulness) và có thể kiểm tra (verifiability), ngoài ra tính trung thực (neutrality) của thông tin cũng có quan hệ tương tác với hai đặc trưng trên để tác động lên tính hữu ích của thông tin (CON2, đoạn 62)

Thông tin tài chính của doanh nghiệp sẽ mang lại sự hữu ích to lớn nếu được so sánh với những thông tin tương tự về các doanh nghiệp khác hoặc so sánh với các thông tin qua các thời kì, thời điểm tại cùng một doanh nghiệp. Điều này càng được thể hiện rõ trong các quyết định cho vay, đầu tư bởi chúng được dựa trên sự ước lượng các cơ hội thay thế. Tuy nhiên, việc so sánh gặp nhiều khó khăn bởi có nhiều phương pháp kế toán khác nhau được chấp thuận trong nhiều năm, đây là nguyên nhân mang tính nguyên tắc để phát triển các chuẩn mực kế toán (CON2, đoạn 112)

Và quan điểm của Hội đồng Chuẩn mực kế toán tài chính Quốc tế (IASB)

Khuôn mẫu lý thuyết (framework) (được IASC phê chuẩn năm 1989 và tiếp tục được IASB kế thừa từ năm 2001), tại đoạn 24 đã xác định 4 đặc tính chủ yếu làm cho thông tin trên Báo cáo tài chính trở nên hữu ích đối với nhà đầu tư, cho vay và các đối tượng khác gồm: tính có thể hiểu, tính phù hợp, tính đáng tin cậy và tính có thể so sánh. Chúng được đặt trong ngữ cảnh ba cấp độ khuôn mẫu về khái niệm cho việc soạn thảo.

Nhìn chung, các tính chất của thông tin tài chính theo Framework cũng khá tương đồng với quan điểm của FASB, chẳng hạn diễn giải về tính có thể hiểu nêu trong Framework tại đoạn 25: thông tin phải được trình bày theo cách thức sao cho những người có trình độ nhận thức tương đối về kinh doanh, hoạt động kinh tế, kế toán và những người để tâm nghiên cứu thông tin có thể dễ dàng hiểu được, nội dung này không khác gì so với đoạn 34 của CON1. Và những nội dung liên quan đến các tính chất khác cũng được Framework đề cập một cách tương tự với FASB CON1 và CON2. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý một số điểm khác biệt giữa IASB và FASB liên quan đến các tính chất làm cho thông tin kế toán trở nên hữu ích, qua 3 quan điểm mấu chốt sau:

- Thứ nhất, mặc dù cả hai đều đề cập đến các đặc tính có thể hiểu, phù hợp, đáng tin cậy và có thể so sánh, nhưng Framework xem đó đều là những tính chất sơ cấp trong khi CON2 đưa ra một thứ bậc rõ ràng với mức độ sơ cấp dành cho tính đáng tin cậy và phù hợp, thứ cấp dành cho tính có thể so sánh, còn tính dễ hiểu đứng tách biệt với các tính chất khác và gắn với đặc thù của người sử dụng thông tin.

- Thứ hai, tính đáng tin cậy của thông tin trong Framework được dựa trên việc đảm bảo các yêu cầu về trình bày trung thực, nội dung hơn hình thức, khách quan, thận trọng và đầy đủ (các đoạn từ 33 đến 38), trong khi theo CON2 thì tính đáng tin cậy bao gồm ba thành phần là trình bày trung thực, có thể kiểm tra và trung lập (Hình 1-1)

- Thứ ba, tính phù hợp của thông tin trình bày trong Framework chủ yếu liên quan đến tính trọng yếu và kịp thời, chịu ảnh hưởng bởi bản chất và tính trọng yếu (đoạn 29), và sự chậm trễ trong báo cáo thông tin có thể làm mất đi tính phù hợp của thông tin (đoạn 43); trong khi đó CON2 cho rằng ngoài tính kịp thời, tính phù hợp còn bao gồm hai thành phần khác là giá trị dự báo và giá trị phản hồi (hình 1-1)

Cho đến nay, IASB và FASB đã có nhiều nỗ lực trong việc tìm kiếm sự hoà hợp trong quan điểm về các khái niệm, lý thuyết và thực hành kế toán, trong lúc đó, cả hai hiện vẫn đang là nguồn cung cấp tài liệu quan tham khảo, đối chiếu quan trọng nhất trong lĩnh vực kế toán trên thế giới.

Một số luận điểm khác liên quan đến tính hữu ích của thông tin.

Nhóm tác giả Collins, Maydaw và Weiss (1997) trên cơ sở đánh giá hồi quy trong giai đoạn từ 1953 đén 1993 nhận thấy: sự kết hợp giữa giá trị phù hợp của lợi nhuận và giá trị ghi sổ của TS không bị suy giảm trong 40 năm qua, thậm chí còn tăng lên một ít, hơn nữa các tác giả Fransis và Schipper (1996), Eley và Waymire (1996) nói chung đều đồng tình rằng mối liên hệ giữa các biến số của thông tin vốn và các dữ liệu tài chính cũng nhận được sự quan tâm đáng kể.

Nhóm tác giả Baruch Lev và Paul Zarowin (1998) của Đại học Newyork thì có quan điểm ngược lại. Theo đó, liên kết chéo giữa cổ tức và lợi nhuận báo cáo và liên quan đến sự hữu ích của thông tin về lợi nhuận đối với các nhà đầu tư đã suy giảm trong hơn hai mươi năm qua và tính nhất quán giữa thông tin được chuyển tải trong lợi nhuận báo cáo và thông tin phù hợp với các nhà đầu tư đã sụt giảm, bất chấp chất lượng của các dự báo của các nhà phân tích. Thậm chí, cho dù theo Collins thì sự liên kết giữa giá trị thị trường và lợi nhuận cùng gía trị ghi sổ có thể ổn định trong bốn mươi năm qua, nhưng những bằng chứng thu thập được cho thấy sự liên kết ấy bị giảm sút trong nửa giai đoạn sau. Lý giải về sự việc trên, Lev và Zarowin cho rằng hệ thống đo lường và báo cáo kế toán không đối phó tốt với sự thay đổi đang tác động sâu sắc đến hoạt động kinh doanh và giá trị thông tin của doanh nghiệp và chính tốc độ thay đổi quá nhanh của doanh nghiệp cùng với sự kiém hiệu quả của hệ thống kế toán trong xử lý các hậu quả của sự thay đổi là những nguyên nhân chính được viện dẫn cho sự suy giảm về tính hữu ích của thông tin tài chính [2, trang 13]. Lev và Zarowin đặt ra vấn đề là làm sao để ngăn chạn sự suy giảm về tính hữu ích của thông tin tài chính và từ đó đưa ra hai đề xuất để nâng cao tính hữu ích của thông tin tài chính, gồm vốn hoá các khoản đầu tư vô hình và trình bày lại một cách có hệ thống các Báo cáo tài chính hiện hành.
lớp học kế toán tổng hợp thực hành tại quận bình dương
Ở một giác độ khác liên quan đến tính hữu ích của thông tin là sự cần thiết của hoạt động kiểm toán độc lập đối với Báo cáo tài chính, bởi lẽ có quá nhiều vấn đề nảy sinh trong quá trình soạn lập, cung cấp thông tin kế toán cho người sử dụng (như mâu thuẫn về lợi ích, khác biệt về nhu cầu sử dụng thông tin, quy trình thông tin - kế toán phức tạp, khả năng kiểm tra thấp) khiến cho thông tin kế toán trở nên thiếu độ tin cậy, không khách quan, chứa đựng nhiều rủi ro về sai sót, gian lận và do vậy, cần phải có sự kiểm tra độc lập, đủ trình độ chuyên môn của bên thứ ba.

Tuy nhiên, việc xem xét vai trò của kiểm toán độc lập đối với Báo cáo tài chính được tiếp cận theo nhiều khía cạnh khác nhau. Trên quan điểm lợi ích của người sử dụng thông tin, các nhà nghiên cứu như Campbell (1985), Shaw (1980) cho rằng kế toán là phương thức mang lại sự tin cậy cho Báo cáo tài chính. Luận điểm này dựa trên giả thiết là Báo cáo tài chính sẽ hữu ích hơn cho những nhóm người sử dụng khác nhau khi chúng được kiểm toán viên độc lập kiểm tra và báo cáo và sự hữu ích tăng thêm này xuất phát từ việc hạn chế bớt rủi ro do việc Báo cáo tài chính chứa đựng những gian lận trọng yếu. Trong khi đó, đứng từ phía người quản lý, Chow và Rice (1982) cho rằng người quản lý tự nguyện chấp nhận kiểm toán vì nhờ đó, làm tăng độ tin cậy của thông tin trên Báo cáo tài chính, cải thiện lợi thế so với trường hợp không kiểm toán. Hơn nữa những lợi ích mang lại theo Campbell sẽ vượt quá chi phí cho cuộc kiểm toán [1, trang 12]. Việc báo cáo (tài chính) là một trách nhiệm phải thực hiện của người quản lý đối với chủ doanh nghiệp và cũng là trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với các bên liên quan trong xã hội. Do vậy, lợi ích của xã hội sẽ được đảm bảo hợp lý từ việc kiểm toán được xem như là một phần của hệ thống kiểm soát của xã hội đối với thông tin trên Báo cáo tài chính. Nói tóm lại, kiểm toán độc lập là một phương thức đảm bảo ở mức độ hợp lý nhất định độ tin cậy của thông tin (…) để bảo vệ quyền lợi chung của xã hội và các bên liên quan trong nền kinh tế thị trường mà thông tin là cơ sở cho việc ra quyết định kinh tế.

Có thể nói, tính hữu ích của Báo cáo tài chính, đo lường, ghi nhận và trình bày các yếu tố của Báo cáo tài chính tính hữu ích có thể bị suy giảm do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do vậy, có thể nâng cao tính hữu ích của Báo cáo tài chính như ngăn chặn sự suy giảm tính hữu ích và hoàn thiện cách thức mang lại lợi ích cho người sử dụng thông tin trên nền tảng kế toán hiện có.
dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại bắc ninh Theo Tạp chí kế toán
[Read More...]


Hướng dẫn thanh toán BHYT cho người đóng liên tục 5 năm



Bộ Y tế đã ban hành Công văn 5544/BYT-BH hướng dẫn thanh toán trực tiếp chi phí cùng chi trả vượt quá 06 tháng lương cơ sở đối với người tham gia BHYT 05 năm liên tục trở lên. Theo đó:

dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại bắc ninh
– Trường hợp cơ sở y tế đã xác định được số lũy kế chi phí cùng chi trả trong khám, chữa bệnh BHYT trong năm có số tiền cùng chi trả lớn hơn 06 tháng lương cơ sở (lớn hơn 7.260.000 đồng) thì:
+ Không thu thêm chi phí cùng chi trả;

+ Cung cấp hóa đơn thu mức cùng chi trả đủ 06 tháng lương cơ sở cho người bệnh để BHXH có căn cứ cấp giấy không phải cùng chi trả trong năm tài chính.

Học kế toán thực tế Tại nguyễn chính thanh đống đa
– Trường hợp cơ sở y tế không xác định được số lũy kế chi phí cùng chi trả trong khám, chữa bệnh BHYT trong năm tại thời điểm có mức chi phí lớn hơn 06 tháng lương cơ sở (tính từ khi tham gia BHYT đủ 05 năm liên tiếp) thì :
+ Người bệnh tự thanh toán phần chi phí cùng chi trả; và

+ Mang hóa đơn đến BHXH để được thanh toán trực tiếp số tiền đã phải trả lớn hơn 06 tháng lương cơ sở.

Công văn 5544/BYT-BH được ban hành vào ngày 19/7/2016.
  dịch vụ kế toán thuế trọn gói tại thanh xuân
[Read More...]


Giảm hơn 200 giờ tính thuế và khai thuế cho doanh nghiệp từ 1/9



Kể từ ngày 1/9, doanh nghiệp sẽ giảm được 201,5 giờ tính và khai thuế do có sự thay đổi trong thủ tục hành chính: Bãi bỏ hàng loạt thủ tục thuế về khai và tính thuế VAT, điều kiện hóa đơn bán hàng, cung ứng dịch vụ, bảng kê hóa đơn hàng hóa dịch vụ mua vào,…


Bộ Tài Chính vừa cho biết: Thực hiện chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý và cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, Hải quan, Bộ tài chính đã ban hành thông tư số 119, cắt bỏ một loạt thủ tục hành chính thuế. Trong đó, bỏ quy định khai và tính thuế VAT đối với hàng hóa, bán sản phẩm tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh.

dịch vụ làm báo cáo tài chính giá rẻ tại quận long biên
Từ 1/9 doanh nghiệp sẽ giảm được 201,5 giờ tính và khai thuế

Từ 1/9 doanh nghiệp sẽ giảm được 201,5 giờ tính và khai thuế

Bỏ quy định khai và tính thuế VAT đối với hàng hóa xuất khẩu bị trả lại phải nhập khẩu trở lại.

Bỏ mức 1 tỷ đồng về điều kiện tài sản, máy móc, thiết bị đầu tư, mua sắm đối với doanh nghiệp mới thành lập để đăng ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế.

Bỏ điều kiện hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ trong điều kiện hồ sơ, thủ tục hoàn thuế VAT đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu (Cơ sở kinh doanh sử dụng ngay hóa đơn thương mại trong hồ sơ hải quan).

Trung tâm dạy kế toán thực hành Tại thanh xuân
Bỏ quy định phải lập hóa đơn, kê khai, tính nộp thuế đối với xuất máy móc, thiết bị, vật tư, hàng hóa dưới hình thức cho vay, cho mượn hoặc hoàn trả nếu có hợp đồng và chứng từ liên quan đến giao dịch phù hợp.

Bỏ 12 chỉ tiêu tại các Bảng kê hóa đơn hàng hóa dịch vụ mua vào; bán ra; v.v…

Thông tư có hiệu lực thi hành từ 01/9/2014, thực hiện những nội dung này doanh nghiệp sẽ giảm được 201,5 giờ tính thuế, khai thuế.

Cùng với đó, Bộ Tài chính đã có văn bản số 11802/BTC-TCHQ ngày 22/8/2014 bỏ quy định một ủy nhiệm thu ngân sách cho một tờ khai hải quan bằng một ủy nhiệm thu cho tất cả các tờ khai trong cùng một lô hàng hóa xuất nhập khẩu; quy định này giảm trên 1,5 triệu chứng từ/năm phải kê khai để nộp thuế.
  dịch vụ kế toán thuế trọn gói giá rẻ tại hà đông
[Read More...]


Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc từ ngày 1/1/2018



Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) năm 2014 có hiệu lực thi hành từ 1/1/2016, từ 1/1/2018 sẽ có thêm một số đối tượng lao động được đóng BHXH bắt buộc.

Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc từ ngày 1/1/2018
Trung tâm dạy kế toán thực tế Tại minh khai hai bà trưng
Cụ thể, từ ngày 1/1/2018, người làm việc theo Hợp đồng lao động (HĐLĐ), Hợp đồng làm việc (HĐLV) có thời hạn từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng thuộc đối tượng tham gia BHXH, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (TNLĐ-BNN).

Cũng từ 1/1/2018, người lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia BHXH bắt buộc.

Đối với người lao động giao kết từ 2 HĐLĐ trở lên với nhiều người sử dụng lao động thì: Đóng BHXH, BHTN theo HĐLĐ giao kết đầu tiên; đóng BHYT theo HĐLĐ có mức tiền lương cao nhất; đóng bảo hiểm TNLĐ-BNN theo từng HĐLĐ.

Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc từ ngày 1/1/2018

dich vu ke toan thue tron goi gia re tai hai phong
Cụ thể, từ ngày 1/1/2018, người làm việc theo Hợp đồng lao động (HĐLĐ), Hợp đồng làm việc (HĐLV) có thời hạn từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng thuộc đối tượng tham gia BHXH, bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (TNLĐ-BNN).

Về mức đóng: Từ ngày 1/6/2017, tỷ lệ đóng vào Quỹ bảo hiểm TNLĐ-BNN bằng 0,5% trên quỹ tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của người lao động. Như vậy, tổng cộng tỷ lệ mà đơn vị sử dụng lao động đóng vào Quỹ BHXH (ốm đau, thai sản, TNLĐ-BNN, hưu trí, tử tuất) là 17,5% (giảm 0,5% so với trước đây).

Về tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, BHYT, BHTN: Theo quy định của Luật, đối với chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, BHYT, BHTN là mức lương, phụ cấp lương theo quy định của pháp luật về lao động; từ ngày 1/1/2018 là mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác theo quy định của pháp luật về lao động ghi trong HĐLĐ.

Mức lương, phụ cấp lương các khoản bổ sung khác ghi trong HĐLĐ theo quy định tại Khoản 1, Điểm a Khoản 2, Điểm a Khoản 3 Điều 14 Thông tư số 47/2015/TT-BLĐTBXH ngày 16/11/2015 của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện một số điều về HĐLĐ, kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật Lao động.
dich vu ke toan thue tron goi tai huyen phu xuyen
[Read More...]


TRUNG TÂM KẾ TOÁN HÀ NỘI

Return to top of page